1.
Có thể đo được những gì:
Hầu như bất cứ vật liệu kỹ thuật thông thường nào đều có
thể đo bằng siêu âm. Các thiết bị đo chiều dày siêu âm có thể cài đặt cho kim
loại, nhựa, vật liệu tổng hợp, sợi thuỷ tinh, gốm, và thuỷ tinh. Có thể đo chiều
dày các sản phẩm nhựa đùn hoặc kim loại cán trên dây truyền và cũng có thể đo từng
lớp hoặc lớp vỏ trong cấu trúc nhiều lớp. Mực chất lỏng và các mẫu sinh vật học
cũng có thể đo. Đo bằng siêu âm luôn hoàn toàn là không phá huỷ, không cần cắt
hoặc phân đoạn.
Vật liệu không thích hợp để đo bằng siêu âm thông thường
là gỗ, giấy, bê tông, và sản phẩm bọt.
2.
Các thiết bị đo chiều dày siêu âm hoạt động như thế nào ?
Năng lượng âm có thể được tạo trên dải băng tần rộng. Âm
thanh có thể nghe thấy xuất hiện ở dải tần số thấp với giới hạn trên khoảng 20
000 chu kỳ trên giây (20 Kilohertz). Siêu âm là năng lượng âm ở tần số cao hơn
giới hạn của con người có thể nghe được. Phần lớn kiểm tra siêu âm được thực hiện
trong dải tần số giữa 500 KHz và 20 MHz, mặc dù một số thiết bị chuyên dụng có
thể sử dụng tần số thấp đến 50 KHz hoặc thấp hơn và cao tới 225 MHz. Bất cứ ở tần
số nào, năng lượng âm bao gồm các dao động cơ học truyền qua môi trường như
không khí hoặc thép theo định luật cơ bản của vật lý về sóng.
Tất cả các thiết bị đo chiều dày siêu âm đều hoạt động bằng
cách đo chính xác thời gian sóng âm được tạo ra bởi đầu dò siêu âm truyền qua
chiều dày của chi tiết. Vì sóng âm phản xạ từ mặt phân cách giữa hai vật liệu
khác nhau, phép đo này thường được thực hiện từ một bên theo kỹ thuật xung vọng,
trong đó thiết bị sẽ đo thời gian truyền vào chi tiết và phản xạ ở mặt đáy quay
lại đầu dò.
Đầu dò bao gồm biến tử áp điện được kích hoạt bởi xung lực
điện ngắn để tạo ra xung của sóng âm. Sóng âm được truyền vào chi tiết kiểm tra
và truyền đến khi chúng đập vào mặt đáy hoặc mặt phân cách khác và phản xạ trở
lại đầu dò. Đầu dò sẽ chuyển năng lượng âm thành năng lượng điện. Về bản chất,
thiết bị nghe xung vọng từ mặt đối diện. Thời gian truyền chỉ khoảng vài phần
triệu giây. Thiết bị được lập trình với vận tốc âm trong vật liệu, từ đó có thể
tính chiều dày của vật liệu bằng công thức toán học đơn giản.
T
= (V) x (t/2)
trong
đó
T
= Chiều dày của chi tiết
V
= Vận tốc âm trong vật liệu kiểm tra
t
= Thời gian truyền một vòng đo được
Máy
đo đô dày vật liệu Điều quan trọng cần phải chú ý là vận tốc âm trong vật liệu
kiểm tra là phần chủ yếu trong phép tính này. Các vật liệu khác nhau truyền
sóng âm với vận tốc khác nhau, nói chung là nhanh hơn trong các vật liệu cứng
và chậm hơn trong vật liệu mềm hơn, và vận tốc âm có thể thay đổi đáng kể với
nhiệt độ. Do vậy luôn luôn phải chuẩn thiết bị đo chiều dày siêu âm với vận tốc
âm trong vật liệu cần đo, và độ chính xác chỉ có thể đạt tới như phép chuẩn đó.
Sóng âm trong dải MHz không truyền hiệu quả trong không
khí, nên chất tiếp âm được sử dụng giữa đầu dò và chi tiết kiểm tra để đạt được
sự truyền âm tốt. Các chất tiếp âm thông dụng là glycerin, propylene glycol, nước,
dầu, và gel. Chỉ cần một lượng tiếp âm nhỏ, đủ để điền đầy khe hở không khí có
thể tồn tại giữa đầu dò và bề mặt chi tiết.
Có ba cách thông dụng
để đo khoảng thời gian sóng âm truyền qua chi tiết. Cách 1 là phương pháp thông
dụng nhất, đo đơn giản khoảng thời gian giữa xung kích hoạt để phát sóng âm và
xung phản xạ thứ nhất và trừ đi giá trị lệch 0 bù cho phần trễ của bản thân thiết
bị, dây cáp, và đầu dò. Cách 2 yêu cầu đo khoảng thời gian giữa xung phản xạ từ
mặt trước và mặt đáy của chi tiết. Cách 3 yêu cầu đo khoảng thời gian giữa hai
xung đáy liên tiếp. Dạng đầu dò và yêu cầu cụ thể của ứng dụng thường sẽ đưa ra
sự lựa chọn cách đo.
|